(LSVN) – Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế khách quan, nhu cầu và định hướng phát triển của đa số các Quốc gia hiện nay. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó, chúng ta đã chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, cũng như mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Qua đó, đã tạo ra những hiệu quả tích cực, thúc đẩy nền kinh tế-xã hội phát triển nhanh chóng, tác động mạnh mẽ đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội, trong đó có lĩnh vực tư pháp nói chung và đội ngũ Luật sư, cũng như hoạt đông nghề nghiệp của Luật sư nói riêng.
Ảnh minh họa.
Hiện nay, Việt Nam đã trở thành đối tác, có quan hệ hợp tác quốc tế sâu rộng với nhiều Quốc gia và khu vực trên thế giới, chúng ta đã ra nhập nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt là Tổ chức thương mại thế giới (WTO), ký kết nhiều Điều ước quốc tế song phương và đa phương (Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (VN-EU FTA)…), với các mối quan hệ quốc tế đang ngày càng phát triển đa dạng và phong phú, tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế cũng đặt nền kinh tế và các doanh nghiệp của Việt Nam trước sức ép cạnh tranh gay gắt hơn, không chỉ tại thị trường thế giới mà ngay cả thị trường trong nước. Song hành với đó là những rủi ro và tranh chấp pháp lý quốc tế (về đầu tư, thương mại, tài chính, sở hữu trí tuệ….) mà các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức của Việt Nam phải đối mặt cũng ngày càng tăng, yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc trong quá trình hội nhập cũng càng trở nên cấp thiết. Do đó, nhu cầu sử dụng các dịch vụ pháp lý của Luật sư trong việc tư vấn, hỗ trợ pháp lý trong các quan hệ có tính quốc tế của người dân, doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức đang không ngừng ra tăng, trở thành nhu cầu khách quan, tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế.
Vai trò của Luật sư không chỉ là người “chữa bệnh” pháp lý, tham gia tư vấn, giải quyết các vụ việc tranh chấp, khắc phục các rủi ro pháp lý cho các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức mà còn là những “người gác cửa” trong việc tư vấn ban đầu, để phòng ngừa, hạn chế, thậm chí là loại bỏ các tranh chấp, rủi ro pháp lý có thể phát sinh trong tương lai.
Đồng thời, các Luật sư có chuyển môn sâu về pháp luật quốc tế, có nhiều kinh nghiệm tham gia tư vấn, giải quyết các tranh chấp, các vấn đề pháp lý quốc tế sẽ là các chuyên gia, có thể có những đóng góp quý báu cho các cơ quan Nhà nước trong việc đàm phán các Điều ước quốc tế, hay đấu tranh pháp lý để bảo vệ độc lập, chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, cũng như bảo vệ các lợi ích của Quốc gia, dân tộc trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, các Luật sư am hiểu về luật pháp quốc tế cũng có thể phát huy vai trò của mình trong việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật, vừa đảm bảo sự tương thích của nội luật với các quy định của pháp luật quốc tế và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, vừa bảo đảm được các lợi ích quốc gia, lợi ích chính đáng của các chủ thể Việt Nam khi tham gia vào “sân chơi” toàn cầu.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, đội ngũ Luật sư và hoạt động nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, có những đóng góp to lớn trong việc phát triển nền kinh tế – xã hội, công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế của đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của xã hội và quá trình hội nhập quốc tế, thì sự phát triển và vai trò của Luật sư Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế, nhược điểm cần khắc phục, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Cùng với công cuộc cải cách tư pháp thì việc xây dựng và phát triển đội ngũ Luật sư luôn nhận được sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước. Từ Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Luật Luật sư năm 2006, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư năm 2012, đến Chiến lược phát triển Luật sư đến năm 2020 và Đề án phát triển đội ngũ Luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2010 – 2020 của Thủ tướng Chính phủ, cùng với sự phát triển ngày càng hoàn thiện của các quy định pháp luật và chính sách có liên quan, đã tạo ra những cơ sở và động lực to lớn cho đội ngũ Luật sư Việt Nam có những bước phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng, phạm vi hoạt động của Luật sư được mở rộng, nhu cầu sử dụng các dịch vụ pháp lý và số lượng các vụ việc có Luật sư tham gia ngày càng tăng. Tuy nhiên, các quy định pháp luật, chính sách về Luật sư và hoạt động nghề Luật sư vẫn còn nhiều bất cập, chưa khẳng định được đầy đủ vị trí, vai trò của Luật sư, không đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền và những đòi hỏi khách quan của hội nhập quốc tế.
Thứ hai: Trong những năm qua, đội ngũ Luật sư Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh chóng, số lượng Luật sư và các tổ chức hành nghề Luật sư không ngừng tăng, chất lượng của đội ngũ Luật sư cũng đang từng bước được nâng cao, bước đầu đáp ứng yêu cầu chuyên nghiệp hóa. Trong đó, đã có nhiều tổ chức hành nghề Luật sư và Luật sư chuyên sâu về kinh doanh, thương mại, đầu tư có yếu tố nước ngoài. Khách hàng của Luật sư cũng đa dạng hơn, tỉ lệ khách hàng và vụ việc có yếu tố nước ngoài hoặc ở nước ngoài có xu hướng tăng nhanh. Nhiều Luật sư đã tham gia giải quyết hiệu quả các tranh chấp kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài, cung cấp các dịch vụ pháp lý đa dạng, tư vấn và hỗ trợ pháp lý hiệu quả cho các khách hàng, nhận được sự hài lòng và tin tưởng của khách hàng trong và ngoài nước, tạo được sự tín nhiệm trên thị trường dịch vụ pháp lý trong khu vực và quốc tế. Một số tổ chức hành nghề Luật sư đã xây dựng được thương hiệu và uy tín của mình trên thị trường trong nước và khu vực, có thể cạnh tranh với các tổ chức hành nghề Luật sư nước ngoài.
Sự phát triển tích cực của đội ngũ Luật sư và hoạt động nghề nghiệp của Luật sư đã góp phần hình thành và phát triển thị trường dịch vụ pháp lý tại Việt Nam, hỗ trợ tích cực trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, doanh nghiệp và tổ chức, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, thu hút đầu tư nước ngoài, hỗ trợ tích cực cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại nói chung và hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại quốc tế nói riêng. Thông qua đó, các Luật sư Việt Nam cũng có thêm nhiều cơ hội “cọ xát”, học hỏi, nâng cao trình độ tổ chức, kiến thức và kỹ năng hành nghề mang tính chất quốc tế. Tuy nhiên, so với thế giới thì tỉ lệ Luật sư trên dân số của chúng ta còn thấp, số lượng Luật sư Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, có sự phân bố không đồng đều giữa các địa phương, khiến cho việc tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ pháp lý của Luật sư gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nhất là các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn.
Các Luật sư có kiến thức chuyên sâu về pháp luật quốc tế, có kinh nghiệm tranh tụng hoặc làm việc trong môi trường quốc tế không nhiều. Trình độ ngoại ngữ, khả năng giao tiếp, sử dụng ngoại ngữ trong cung cấp các dịch vụ pháp lý vẫn là một điểm yếu cố hữu của đội ngũ Luật sư Việt Nam hiện nay. Số lượng Luật sư có thể sử dụng thành thạo các loại ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh chuyên ngành pháp lý không nhiều, đã hạn chế khả năng tham gia các vụ việc có yếu tố nước ngoài của Luật sư Việt Nam. Đây chính là rào cản rất lớn đối với các Luật sư Việt Nam khi hội nhập vào thị trường pháp lý khu vực và quốc tế, làm giảm năng lực cạnh tranh của Luật sư Việt Nam. Có rất nhiều các vụ việc tranh chấp thương mại quốc tế, các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức của Việt Nam vẫn phải thuê Luật sư nước ngoài trợ giúp pháp lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ ba: Một bộ phận không nhỏ người dân, doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức vẫn chưa có những nhận thức chính xác và đầy đủ về vị trí và vai trò của Luật sư trong việc tư vấn, trợ giúp pháp lý, dẫn đến việc không sử dụng các dịch vụ pháp lý của Luật sư khi cần thiết. Đối với các doanh nghiệp, cơ quan và tổ chức thì việc sử dụng các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ pháp lý của Luật sư có xu hướng tăng nhanh nhưng vẫn chưa thực sự phổ biến trong đó, chủ yếu là sử dụng dịch vụ pháp lý theo vụ việc, tỉ lệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý thường xuyên còn thấp. Số lượng các vụ việc tranh chấp liên quan đến thương mại quốc tế có sự tham gia của Luật sư Việt Nam còn chưa nhiều. Thực tiễn cho thấy, nhiều doanh nghiệp đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc về mặt pháp lý, thậm chí là phải gánh chịu những rủi ro và thiệt hại trong hoạt động kinh doanh, bị thua thiệt trong các tranh chấp pháp lý, khi không có sự tự vấn, hỗ trợ pháp lý của Luật sư, đặc biệt là khi tham gia vào các giao dịch kinh doanh, thương mại quốc tế.
Thứ tư: Chương trình đào tạo cử nhân luật và đào tạo Luật sư đã có nhiều đổi mới, chất lượng đào tạo ngày càng được nâng cao. Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng đã có Quyết định số 1711/QĐ-BTP ngày 12/11/2021, ban hành Chương trình khung đào tạo Luật sư phục vụ hội nhập quốc tế, với những nội dung đào tạo chuyên sâu về kiến thức và kỹ năng của Luật sư trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài, cũng như kỹ năng sử dụng Tiếng Anh.v.v.. Học viện Tư pháp đã tổ chức thành công nhiều khóa đào tạo Luật sư phục vụ hội nhập quốc tế. Đây là bước tiến rất tích cực trong công tác đào tạo Luật sư, tiếp cận với các tiêu chuẩn về đào tạo kỹ năng nghề cho Luật sư của các nước phát triển trên thế giới (Singaore, Úc, Anh, Mỹ), góp phần bước đầu xây dựng và phát triển đội ngũ Luật sư có kiến thức, kỹ năng về tư vấn, tranh tụng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, đầu tư, giải quyết tranh chấp quốc tế, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, nhìn chung chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật và đào tạo, thực tập hành nghề Luật sư còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển đội ngũ Luật sư trong điều kiện hội nhập quốc tế. Nhiều Luật sư do không được đào tạo bài bản, ít có cơ hội thực hành, trải nghiệm thực tế nên trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng khi tham gia tư vấn, tranh tụng quốc tế còn yếu, tính chuyên nghiệp chưa cao.
Thứ năm: Một bộ phận Luật sư còn chưa chủ động, tích cực trong việc trau dồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng hành nghề, có phẩm chất chính trị, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp chưa cao. Vì vậy, không đảm bảo tốt chất lượng dịch vụ pháp lý cho khách hàng, ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín và hình ảnh của Luật sư, giảm niềm tin của xã hội vào đội ngũ Luật sư và nghề Luật sư Việt Nam.
Từ thực trạng nêu trên, để nâng cao chất lượng và vai trò của đội ngũ Luật sư, đáp ứng các yêu cầu của hội nhập quốc tế thì cần phải thực hiện các biện pháp đồng bộ sau:
Thứ nhất: Các cơ quan chức năng cần tiếp tục thực hiện hiệu quả các chủ chương, chính sách và quy định hiện có, đặc biệt là quán triệt sâu sắc và thực hiện hiệu quả hơn nữa tinh thần, định hướng cải cách tư pháp tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, kết hợp với việc nghiên cứu và tổng kết thực tiễn, nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật và các chính sách có liên quan, để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho đội ngũ Luật sư phát triển đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Thứ hai: Xây dựng và hoàn thiện hơn nữa chương trình đào tạo cử nhân luật và Luật sư một cách bài bản, khoa học, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, chuyên sâu về kiến thức, kỹ năng hành nghề trong môi trường pháp lý quốc tế và khả năng ngoại ngữ; Các cơ sở đào tạo Luật sư trong nước cũng cần tăng cường hợp tác với các trung tâm đào tạo Luật sư nước ngoài, tổ chức hành nghề Luật sư nước ngoài, để học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu có chọn lọc các mô hình và phương pháp đào tạo tiên tiến trên thế giới, giúp nâng cao kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cho Luật sư Việt Nam, phù hợp với các yêu cầu của quá trình hội nhập; cũng như có các chính sách phù hợp để thu hút các Luật sư giỏi được đào tạo ở nước ngoài về cống hiến cho đất nước…
Thứ ba: Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần tăng cường hợp tác song phương và đa phương với các tổ chức Luật sư quốc tế và các Liên đoàn Luật sư nước ngoài, để giao lưu, học hỏi những điểm tiến bộ và kinh nghiệm xây dựng, phát triển đội ngũ Luật sư từ các nước. Mặt khác, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư các tỉnh cũng cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ Luật sư; thường xuyên tổ chức các hoạt động bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ Luật sư; thực hiện các hình thức tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp và xã hội về vị trí, vai trò của Luật sư trong xã hội.
Thứ tư: Các Luật sư cần chủ động và tích cực trau dồi kiến thức, khả năng ngoại ngữ, tích lũy kỹ năng, kinh nghiệm hành nghề đối với việc tư vấn, hỗ trợ pháp lý trong các vụ việc có yếu tố nước ngoài, tăng cường “cọ xát” với môi trường làm việc quốc tế. Bên cạnh đó, các Luật sư cũng phải đặc biệt chú trọng đến việc giữ gìn, bảo vệ uy tín, hình ảnh của Luật sư và nghề Luật sư, để có thể luôn nhận được sự tin tưởng của người dân, doanh nghiệp và xã hội.
Thực tiễn cho thấy, Luật sư và hoạt động nghề Luật sư có vai trò rất lớn, là một thành tố không thể thiếu trong quá trình hội nhập quốc tế. Do đó, phát triển đội ngũ luật có kiến thức chuyên sâu, thành thạo các kỹ năng trong hành nghề Luật sư quốc, có khả năng tư vấn các vấn đề liên quan đến hội nhập quốc tế, có đủ sức cạnh tranh với các tổ chức hành nghề Luật sư nước ngoài là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Để hoàn thành mục tiêu này, bên cạnh sự nỗ lực và cố gắng không ngừng của đội ngũ Luật sư, thì cũng rất cần sự đồng hành, định hướng và hỗ trợ về chính sách và pháp luật từ phía Nhà nước, tạo điều kiện cho đội ngũ Luật sư và nghề Luật sư có thể phát huy chính xác và đầy đủ vị trí, vai trò của mình trong công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế.
Theo quy định tại Điều 8, Luật Phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL), ngày 09/11 hàng năm là Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày Pháp luật Việt Nam được tổ chức nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn Hiến pháp, pháp luật cho mọi người, góp phần xây dựng lối sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, tạo lập thói quen tự giác thực hiện, ứng xử theo pháp luật và nâng cao nhận thức pháp luật của mỗi người, qua đó, xây dựng văn hóa pháp lý trong toàn xã hội.
Thông qua Ngày Pháp luật Việt Nam là dịp để đánh giá lại những kết quả đã đạt được, tồn tại, hạn chế trong công tác xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật, PBGDPL; định hướng triển khai trong thời gian tới; tôn vinh, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác này. Ngày Pháp luật Việt Nam còn có ý nghĩa giáo dục, xây dựng niềm tin, tình cảm, thái độ ứng xử phù hợp với pháp luật, tạo nên sự bền vững của ý thức pháp luật, tạo lập kỷ cương, phép nước góp phần nâng cao hiệu quả xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật, PBGDPL, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, một xã hội Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Năm 2022 là năm thứ 10 cả nước thực hiện hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam, nhằm khẳng định, làm sâu sắc thêm mục đích, ý nghĩa của Ngày Pháp luật Việt Nam và vai trò của pháp luật đối với đời sống xã hội. |
Thạc sĩ, Luật sư NGUYỄN ĐỨC HÙNG
Chủ tịch HĐTV Công ty Luật TNHH A&H, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội